ĐÀ LẠT, MỘT THỜI YÊU DẤU CŨ
–Kim Thanh-
Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội,
Văn Hóa Vụ/ Trường Chính Tranh Chính Trị
[…] Tối 31/3/1975, nghe Trường có lệnh di tản, tôi bỏ lại chiếc Peugeot 203, trước căn nhà thuê, khu chợ Chi Lăng, vì không có xăng, và đi bộ, lưng đeo ba lô (đựng đồ lặt vặt, một bộ quân phục sạch, vài quyển sách, và một chai cognac XO Courvoisier do anh bạn Tây Alain Bichet mua tặng), lên Trường xin quá giang xe jeep của Thiếu tá Lê Ân, Văn Hóa Vụ trưởng, xếp trực tiếp của tôi. Cùng chung xe, có Bác sĩ Đặng Phùng Hậu, trưởng bệnh xá Trường (cũng bỏ lại xe hơi riêng, có lẽ bởi thiếu xăng, giống tôi), và Thiếu úy Nguyễn Ngọc Chẩn, sĩ quan phụ khảo, thuộc Khoa. Xe jeep của chúng tôi bắt đầu chuyển bánh lúc 12 giờ đêm 31/3, rạng sáng ngày 1 tháng 4, cùng với đoàn xe Trường Đại Học CTCT. Khi ai nấy an tọa xong, tôi bắt đầu khui chai cognac, rót ra bốn ly nhựa nhỏ, mời mọi người uống. Tôi nói, giọng có vẻ cải lương kiểu Hùng Cường, “xin tất cả cạn chén ly bôi, xem như những giọt rượu nồng cay này là những giọt nước mắt quê hương, để khóc cho đêm giã từ thành phố Đà Lạt thương yêu”. Thiếu tá Ân không uống, lấy cớ bị đau bao tử kinh niên, và đang lái xe. Càng uống, không hiểu sao, tôi càng thấy lòng buồn vời vợi, trước viễn ảnh tang thương, mịt mờ của đất nước. Càng buồn lại càng uống thêm. Làm nhớ bài thơ “Tương tiến tửu” của thi hào Lý Bạch: Ngũ hoa mã, Thiên kim cừu / Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu / Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu (Ngựa năm sắc, Áo ngàn vàng / Hãy bảo nhau lấy ra đổi rượu ngon / Để ta cùng các bạn diệt tan nỗi sầu -dịch bởi Nguyễn Danh Đạt, 1988).
Continue reading →